Home BBC Little Monsters – The Storytellers

Little Monsters – The Storytellers

by Admin




Once upon a time in England there was a scarecrow. He stood in a field and looked like a man. But he wasn’t a real man. The scarecrow was made of straw.

Ngày xửa ngày xưa, ở nước Anh có một chú bù nhìn. Chú đứng trên cánh đồng và bề ngoài nhìn chú giống như con người. Nhưng thật ra chú không phải. Chú được làm từ rơm.

The scarecrow’s head was an old football. His face was painted on: two eyes, a nose and a smiling mouth. He didn’t have hair, but he did have a hat. It was brown and made of felt. A farmer used to wear it, long ago.

Cái đầu của chú được làm từ  một quả bóng cũ. Khuôn mặt chú được vẽ hai mắt, mũi và miệng cười. Chú không có tóc, nhưng chú vẫn có một chiếc mũ đội trên đầu. Nó có màu nâu và làm bằng nỉ. Một người nông dân đã từng đội nó, từ lâu lắm rồi.

His clothes had come from the farmer too: a long brown coat with lots of pockets, an old pair of jeans with holes in the legs, a worn-out leather belt with a rusty buckle, a red scarf with white stripes.

Quần áo của chú cũng là của  người nông dân: một chiếc áo khoác dài màu nâu có nhiều túi, một chiếc quần jean cũ có lỗ ở chân, một chiếc thắt lưng da sờn khóa gỉ, cùng với chiếc khăn quàng đỏ có sọc trắng.

The scarecrow didn’t have shoes, because he didn’t have feet. A wooden pole kept him standing in the ground. He never moved.

Chú bù nhìn không đeo giày, bởi vì chú không có chân. Một cây gỗ đã giúp chú đứng thẳng trên mặt đất. Và chú  không bao giờ di chuyển.

The scarecrow liked being in the field. He saw the Sun come up every morning. He watched the clouds drift across the sky. At night, he gazed at the Moon and counted the stars.

Chú thích được ở trên cánh đồng. Ớ đó chú được ngắm mặt trời mọc mỗi sáng. Chú được nhìn những đám mây trôi trên bầu trời. Vào ban đêm, chú nhìn chằm chằm vào Mặt trăng và đếm những vì sao.

He enjoyed his job. He scared away the crows – the big, clever black birds that made trouble on the farm. They stole the seeds when they were sown. They pecked at the vegetables when the leaves began to grow. The scarecrow knew without him, nothing would grow at all.

Bù nhìn rất thích công việc của mình. Chú đuổi đám quạ – những con chim đen to lớn, xảo quyệt gây hại đến nông trại. Chúng lấy cắp hạt giống khi mới được gieo trồng. Chúng mổ vườn rau khi lá mới bắt đầu mọc. Chú bù nhìn biết không có chú thì mọi thứ sẽ không bao giờ lớn lên được.

người rơm

But this year, the scarecrow had a problem.

Nhưng đến năm nay, đã có vấn đề xảy đến với chú.

The farmer had stuffed him full of new straw. Clean, yellow straw. It made a good body. The scarecrow was very happy. His coat fitted him much better now, and he felt smart. 

Người nông dân đã nhồi cho chú đầy rơm mới. Những cọng rơm sạch và vàng óng. Chúng tạo nên một hình hài rất đẹp. Và chú rất vui. Giờ đây áo khoác của chú  trở nên vừa vặn, và chú cảm thấy thật sang trọng.

The problem was the crows. It was springtime, so they were building nests. They were looking for things to use – and they had spotted the new straw. It was perfect.

Vấn đề đến từ lũ quạ. Thời điểm đó là mùa xuân, vì vậy chúng cần làm tổ. Chúng tìm kiếm những thứ có thể sử dụng được và phát hiện đụn rơm mới. Thật là hoàn hảo.

Three crows sat on a fence and looked at the scarecrow.

Ba con quạ đứng trên hàng rào, nhìn chú bù nhìn

Caw, look at him!’ said one. ‘He has fresh straw in all his pockets. My little ones would love to sleep on that. I’m going to get some.

“Quạc, nhìn nó kìa!” Một con quạ thốt lên. “Túi anh ta toàn là rơm mới. Những con chim non bé bỏng của ta sẽ thích thú khi được ngủ trong chỗ rơm ấy. Ta sẽ đi lấy”.

The crow flew across the field and landed on the scarecrow. He pushed his sharp black beak into the straw and pulled some out. Then he flew off, back to his nest.

Con quạ bay qua cánh đồng và đáp xuống chú bù nhìn. Nó đẩy cái mỏ đen sắc nhọn của mình vào chú và rút ít rơm ra. Rồi nó bay về tổ.

‘Look at that,’ said the next crow. ‘It was easy! I am going to steal some too.’

Coi kìa’, con quạ khác trầm trồ: “Dễ dàng thế! Ta cũng sẽ lấy một ít”.

The second crow flew to the scarecrow. He took some straw. Then the third crow flew over and stole some more.

Con quạ thứ hai bay đến chỗ chú bù nhìn. Nó lấy đi một ít rơm. Rồi con quạ khác bay đến và lại lấy thêm nữa.

All day long, the crows flew from their nests to the scarecrow. They stole more and more straw, but the scarecrow couldn’t stop them. He couldn’t run after them. He couldn’t wave his arms. Shouting made no difference. They simply laughed and took more straw.

Suốt cả ngày dài, đàn quạ bay lũ lượt từ tổ của chúng đến chú bù nhìn. Chúng lấy trộm ngày càng nhiều, nhưng chú bù nhìn không thể ngăn chúng được. Chú không thể chạy theo họ. Chú cũng không thể vẫy tay. Chú hét cũng không làm thay đổi được gì. Chúng chỉ cười nhạo và tiếp tục lấy đi rơm của chú bù nhìn.

By the end of the day, he was looking thin.

Đến cuối ngày, trông chú ốm đi trông thấy.

‘Oh no,’ he said. ‘What am I going to do? If they take more tomorrow, there will be nothing left of me!’

“Ôi không”, chú thốt lến. “Tôi phải làm sao đây? Nếu ngày mai chúng tiếp tục thì tôi sẽ không còn gì cả!”

‘I can help,’ said a tiny voice.

“Ta có thể giúp cậu”, một giọng nói thoang thoảng vang lên.

The scarecrow looked down. There was a mouse sitting on his belt buckle. ‘I can scare the crows away,’ said the mouse.

Chú nhìn xuống. Một con chuột đang ngồi trên chiếc khóa thắt lưng của chú. “Ta có thể đuổi đám quạ đó đi”, con chuột nói.

The scarecrow smiled. ‘That is very kind of you, but I don’t think they would be scared. You are very small.’

Bù nhìn bật cười: “Anh thật tốt bụng, nhưng tôi không nghĩ anh có thể dọa chúng. Anh quá nhỏ bé”.

‘That is true,’ said the mouse. ‘But I have lots of friends – and I have an idea!’ He climbed up to the scarecrow’s ear and whispered something.

“Đúng thật”, con chuột nói. “Nhưng ta có nhiều bạn và ta đã nhảy ra một ý tưởng!”. Con chuột trèo lên đến tai chú bù nhìn và thì thầm điều gì đó.

The scarecrow smiled again. ‘My little friend,’ he said. ‘I think that might work!’

Chú bù nhìn bật cười lần nữa. “Ôi anh bạn bé nhỏ của tôi”, chú nói. “Tôi nghĩ cách đó có thể hiệu quả đấy!”

The next day came. The three crows flew down to the fence.

Ngày hôm sau, ba con quạ sà xuống hàng rào.

‘Hahaha!’ said the first crow. ‘The straw man is still there. I am going to take more of his stuffing!’

“Hahaha!”, con quạ đầu tiên nói. “Con bù nhìn vẫn còn ở đó. Ta sẽ đi lấy nhiều rơm hơn của nó”

He flew to the scarecrow. But just as he landed: ‘YAAAAAAR!’

Nó bay tới chỗ chú bù nhìn. Nhưng khi nó sà xuống: “YAAAAAAR!”

Twenty mice jumped out of the scarecrow’s clothes and roared at him. They waved their arms, pulled faces, did everything they could to appear big and scary. 

Hai mươi con chuột nhảy ra từ bộ quần áo của chú bù nhìn và gầm lên với nó. Chúng khua tay, méo mặt, làm mọi thứ có thể để trông có vẻ to lớn và đáng sợ.

The crow flew back to his friends in horror.

Con quạ bay về chỗ đám bạn của nó trong sự kinh hoàng

‘MONSTER!’ he wailed. ‘A monster attacked me! It was horrible. It had twenty heads. I’m not going back there – ever!’

“QUÁI VẬT!” nó ré lên. “Một con quái vật đã tấn công ta! Thật là khủng khiếp. Nó có 20 cái đầu. Ta sẽ không bao giờ trở lại đó nữa, không bao giờ!”

He flew away and he didn’t come back.

Nó bay đi và không trở lại

What a baby,’ said the second crow. ‘I’m not scared. I’m going in.’

“Đúng là trẻ con!”, con quạ thứ hai nói. “Ta không sợ. Ta sẽ tới đó”.

He flew to the scarecrow and YAAAAAAR!

Nó bay tới chỗ chú bù nhìn rồi lại ré lên “YAAAAAAAAR”

The crow sped back to the fence. ‘It’s true!’ he cried. ‘There really is a monster hiding inside that straw man. I saw it!’

Con quạ quay trở lại chiếc hàng rào. “Đúng”, nó nức nở. “Thật sự là có một con quái vật ẩn sau con bù nhìn đó. Ta đã nhìn thấy!”

He flew away and didn’t come back.

Nó bay đi và không trở lại nữa.

The third crow watched him go. ‘Ha,’ he said. ‘I’m not going there! I have enough straw in my nest.’

Con quạ thứ ba đứng nhìn nó bay đi rồi “Ha”, nó nói. “Ta sẽ không tới đó. Ta đã có đủ rơm trong tổ rồi”. 

He flew away.

Nó bay đi

‘YEEES!’ cried the scarecrow. ‘You’ve done it! They’ve gone!’

“Được rồi!”, chú bù nhìn khóc. “Anh làm được rồi! Bọn chúng đã đi rồi!”

The mice came out of their hiding holes. They cheered and danced and hugged each other.

Những chú chuột ra khỏi lỗ ẩn nấp. Chúng vui vẻ, nhảy múa và ôm nhau.

‘I wish I could give you all something,’ said the scarecrow. ‘A gift, to say thank you.’

“Tôi ước tôi có thể cho tất cả các anh thứ gì đó”, chú bù nhìn nói. “Một món quà để cảm ơn”.

You can give us something,’ said the mouse. ‘A home! Your pockets are very warm and comfortable. We would love to stay.’

“Anh có thể cho chúng tôi thứ gì đó”, con chuột nói. “Một ngôi nhà! Túi của anh rất ấm áp và thoải mái. Chúng tôi muốn ở lại đây”.

‘Then you shall stay,’ smiled the scarecrow. ‘My little monsters!’

“Các anh cứ ở lại”, chú bù nhìn cười. “ Những con quái vật bé nhỏ của tôi!”

Nguồn: BBC Learning English

1.To be made of: Được làm bằng vật liệu gì đó, nguyên liệu không bị biến đổi khỏi trạng thái ban đầu sau khi làm ra vật.
Phân biệt với
To be made from: Được làm ra từ (đề cập đến việc nguyên vật liệu bị biến đổi khỏi trạng thái ban đầu để làm nên vật)
Ví dụ: My clothes are made from tiger skin

2.To be worn out: sờn, mòn
Ex: This clothes were so worn-out that i had to throw it away.

3.to make trouble: Gây rắc rối, gây hại
Ex: He always tries to make trouble for me: Anh ta luôn cố gây rắc rối cho tôi

4.To stuff (v) nhồi, nhồi nhét
Một cách diễn đạt khá hay: Oh geez, I am stuffed ( I’m full)

5.To make no difference : Không làm thay đổi gì

6.Scare someone/something away: Đuổi, xua đuổi, làm ai đó hoảng sợ đến nỗi họ không làm điều gì đó
Ex: Her actions scared me away ( Hành động của cô ta làm tôi hoảng sợ không dám tới gần.

7.Câu cảm thán, mang ý nghĩa tiêu cực
Ta sử dụng cấu trúc What+a+N đẻ than phiền hay chê bai cái gì đó.
Ví dụ: What a day! ( Đúng là cái ngày xui xẻo)

Luyện tập+

You may also like

Leave a Comment