A new public opinion study finds that the coronavirus health crisis has affected the mental health of young Americans under age 35.
Một nghiên cứu ý kiến cộng đồng cho thấy khủng hoảng y tế virus corona đã ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của giới trẻ Mỹ, những người dưới 35 tuổi.
The study found that 56 percent of Americans 18 through 34 said they felt isolated in the past month. That compares to 40 percent of older Americans.
Cuộc nghiên cứu tìm ra rằng 56% người Mỹ trong độ tuổi 18 đến 34 cho rằng họ cảm thấy bị tách biệt trong tháng vừa qua. Con số này chỉ là 40% đối với những người Mỹ lớn tuổi hơn.
The research group NORC at the University of Chicago carried out the study. It questioned more than 2000 people age 18 and older across the United States.
Nhóm nghiên cứu NORC tại Đại học Chicago đã thực hiện nghiên cứu này. Họ đặt câu hỏi với hơn 2000 người từ độ tuổi 18 trên toàn Hoa Kỳ.
Younger adults are dealing with major life issues, including starting college and finding jobs. However, the pandemic has kept them from social activities that are especially important for unmarried people and those starting families.
Những người trẻ tuổi hơn đang phải đối mặt với những vấn đề cuộc sống nghiêm trọng, bao gồm bắt đầu học đại học và tìm việc. Tuy nhiên, đại dịch đã ngăn họ tiếp cận với các hoạt động xã hội, những hoạt động có tầm quan trọng đối với những người chưa kết hôn và những người bắt đầu xây dựng gia đình.
Many younger people are beginning their adult lives during an economic recession. Those in their 30s are experiencing their second.
Nhiều người trẻ tuổi hơn đang bắt đầu cuộc sống trưởng thành của mình trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Những người trong độ tuổi 30 đang trải nghiệm điều này lần thứ hai.
Christina Torres is a 32-year-old schoolteacher in Honolulu, Hawaii. The health crisis forced her to postpone her marriage ceremony which had been set for June. The pandemic also stopped her from attending a funeral for her grandmother.
Christina Torres là một giáo viên trường học 32 tuổi tại Honolulu, Hawaii. Cuộc khủng hoảng y tế buộc cô phải trì hoãn lễ hôn vốn đã được định sẵn là tháng Sáu của mình. Đại dịch cũng khiến cô không thể tham gia tang lễ của bà mình.
And, Torres misses her friends and exercising at the gym.
Và, Torres nhớ những người bạn của mình và việc tập luyện tại phòng gym.
“…It’s hard not to feel hopeless sometimes, especially because the numbers keep going up,” she said.
“…Đôi lúc thật khó để không cảm thấy vô vọng, đặc biệt bởi vì các con số tiếp tục tăng,” cô cho biết.
The NORC study found that younger Americans show higher rates of psychosomatic problems. These include trouble sleeping and headaches. The likelihood of experiencing these problems decreases with age.
Cuộc nghiên cứu của NORC tìm ra rằng những người Mỹ trẻ tuổi có tỷ lệ mắc các vấn đề tâm lý cao hơn. Những vấn đề này bao gồm khó ngủ và đau đầu. Khả năng trải nghiệm các vấn đề tương tự như vậy giảm theo độ tuổi.
Tom Smith directs NORC’s General Social Survey. He said one possible reason for the difference between young and old is that young adults have less experience dealing with public health crises.
Tom Smith là người chỉ đạo Điều tra Xã hội Toàn diện của NORC. Ông cho biết một nguyên nhân khả thi cho sự khác biệt giữa người trẻ và người già chính là người trẻ có ít kinh nghiệm đối mặt với các cuộc khủng hoảng y tế cộng đồng hơn.
Smith, who is 71 years old, said he grew up with the health crisis of polio.
Smith, một người 71 tuổi, cho biết mình lớn lên cùng với khủng hoảng y tế bệnh bại liệt.
Torres thinks some of the difficulty for her generation comes from a lack of historical understanding shared by their parents’ generation.
Torres nghĩ rằng một số khó khăn đối với thế hệ của mình đến từ việc sự thiếu hiểu biết lịch sử, được chia sẻ từ thế hệ cha mẹ mình.
She worries about the future. “It doesn’t feel like it’s going to get better,” she said.
Cô lo lắng về tương lai. “Mọi thứ có vẻ sẽ không tốt đẹp lên,” cô cho biết.
Twenty-five percent of young adults in the study described their mental health as fair or poor. Thirteen percent of those 35 and older described themselves this way.
25% số người trẻ trong cuộc nghiên cứu miêu tả sức khỏe tinh thần của họ là khá hoặc nghèo nàn. 13% trong số người từ 35 tuổi đổ lên tự miêu tả (sức khỏe tinh thần của họ) như vậy.
Wayne Evans is 18 years old. He is in his first year of studies at North Carolina State University. But he was sent home because there were a lot of coronavirus cases at the school. He said social media reminds him every day of the threat of COVID-19.
Wayne Evans là một người 18 tuổi. Anh đang học năm nhất tại Đại học Bang North Carolina. Nhưng anh ấy đã bị buộc về nhà bởi có rất nhiều ca mắc virus corona tại trường của anh ta. Anh cho biết truyền thông xã hội nhắc nhở anh hằng ngày về sự đáng sợ của COVID-19.
“In some ways social media has added to my stressors, yes,” he said.
“Bằng cách nào đó truyền thông xã hội đã làm tăng thêm nguồn cơn stress của tôi,” anh cho biết.
The NORC study found 67 percent of young adults felt at least sometimes that they could not control the important things in life. That is compared to 50 percent of those 35 and older.
Nghiên cứu của NORC tìm ra 67% số người trẻ cảm thấy ít nhất đôi lúc họ không thể kiểm soát những điều quan trọng trong cuộc sống của mình. Con số này chỉ là 50% đối với những người từ 35 tuổi trở lên.
An even larger difference existed between young and old who felt that they could not overcome the increasing problems they faced.
Có một sự khác biệt lớn hơn nhiều giữa người trẻ và người già cảm thấy rằng họ không thể vượt qua những vấn đề ngày một tăng mà họ đang phải đối mặt.
Fifty-five percent of younger Americans said difficulties were growing too high, while only 33 percent of older Americans said the same.
55% số người trẻ Mỹ cho rằng những khó khăn đang ngày càng tăng chóng mặt, trong khi chỉ 33% những người lớn tuổi hơn nghĩ như vậy.
Evans blamed social media as part of the problem.
Evans đổ tội cho truyền thông xã hội là một phần của vấn đề.
“Just the information overload that’s unavoidable on social media platforms can be distracting,” he said.
“Chỉ riêng việc thông tin quá tải đến mức không thể tránh khỏi trên các nền tảng truyền thông xã hội cũng có thể gây xao nhãng,” anh cho biết.
Nguồn: VOA
psychosomatic – adj. thuộc về tâm lý, tinh thần
Ex: The doctor thinks Leo’s symptoms are psychosomatic. – Bác sỹ cho rằng triệu chứng của Leo là bệnh tâm lý.
likelihood – n. khả năng (có thể xảy ra)
Ex: There is every likelihood that more jobs will be lost later this year. – Có khả năng rằng sẽ có nhiều công việc bị mất trong năm nay.
distracting – adj. xao nhãng, phân tâm
Ex: Please turn your music down – it’s very distracting. – Làm ơn tắt nhỏ nhạc đi – nó rất là gây xao nhãng.
understanding – n. sự hiểu biết
Ex: My understanding of the agreement is that they will pay $50,000 over two years. – Theo những gì tôi hiểu biết về hợp động này thì họ sẽ trả $50,000 trong vòng 2 năm.
isolated – adj. tách biệt, cô lập
Ex: Working at home was making her feel increasingly isolated. – Làm việc tại nhà khiến cô ngày càng cảm thấy bị cô lập.
overcome – v. vượt qua
Ex: Eventually she managed to overcome her shyness in class. – Đột nhiên cô ấy có thể vượt qua sự xấu hổ của mình trong lớp học.
overload – v. quá tải
Ex: Don’t overload the washing machine, or it won’t get the clothes clean. – Đừng có làm quá tải máy giặt, hoặc quần áo sẽ không sạch đâu.
unavoidable – adj. khó thể tránh khỏi
Ex: War is now unavoidable. – Chiến tranh là điều không thể tránh khỏi.
stressor – n. yếu tố gây stress, gây căng thẳng
Ex: Constant noise can be a stressor. – Tiếng ồn liên tục có thể là nguồn gây căng thẳng.
4 comments
Cho em hỏi mình dùng từ “Psychological problems” thay cho “Psychosomatic problems” được không ạ?
E thấy 2 từ đều là tính từ mà không biết có khác nhau gì không ạ? Hi vọng mọi người giải thích giúp e với.
Chào bạn. Đối với các bệnh, triệu chứng tâm thần, thần kinh, thuộc chuyên ngành y khoa, psychosomatic thường được sử dụng hơn. psycho có nghĩa là tâm lý, còn sommatic nghĩa là cơ thể. psychosomatic là các rối loạn về mặt thể chất (ví dụ như loét dạ dày, đau đầu, v.v.) gây ra bởi các yếu tố tinh thần, cảm xúc hay bệnh tâm lý. Còn psychological là “thuộc về tâm lý”. Như vậy, ở một mức độ nhất định, hay một số tình huống, thì hai từ này có thể coi là đồng nghĩa.
bai viet rat hay
Cảm ơn bạn, hy vọng bạn luôn ủng hộ Báo Song Ngữ nha ^^